Dùng một số thuốc trị thiếu máu thế nào cho đúng?
Một số thuốc thường dùng trị thiếu máu như: sắt, vitamin B 12 , acid folic. Tuy nhiên, khi dùng các thuốc này cần chú ý gì?
Đối với thuốc bổ sung sắt
Sắt là một nguyên tố vi lượng, có vai trò rất quan trọng tăng cường hệ thống miễn nhiễm của thân thể, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và bà mẹ mang thai. Sắt cùng với protein tạo thành huyết sắc tố (hemoglobin) vận tải oxy thành thử thiếu sắt dẫn đến thiếu máu dinh dưỡng là bệnh phổ quát ở trẻ thơ.
Bổ sung sắt trong các trường hợp thiếu máu, thiếu sắt.
Khi thiếu hụt sắt, thân không chỉ có thay đổi sự tạo máu mà còn thay đổi chức năng của nhiều enzym quan yếu. Do vậy, bổ sung sắt là biện pháp rất quan yếu trong các trường hợp thiếu máu thiếu sắt do các nguyên nhân khác nhau; phụ nữ có thai, cho con bú, chứng xanh mét của phụ nữ, trẻ nít đang lớn (nhu cầu sắt tăng cao)...
Trong điều trị, sắt có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với một số vitamin khác. Sắt có thể dùng đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch chậm. Dùng đường tiêm tĩnh mạch khi bệnh nhân không dung nạp hoặc rối loạn hấp thụ sắt theo đường uống hoặc người suy thận mạn tính kèm theo phải lọc máu. Hiện có 2 chế phẩm sắt dextran và sắt sucrose dùng tiêm chậm tĩnh mạch hoặc truyền tĩnh mạch. Khi dùng cần phải thử với liều thấp trước để phòng ngừa phản ứng phản vệ. Những sản phẩm này chỉ dùng bởi thầy thuốc, thực hiện ở các cơ sở y tế. Dạng uống (đường uống) là đường dùng thông dụng nhất, bác sĩ thường kê đơn cho bệnh nhân về dùng.
Đối với các chế phẩm chứa sắt khi dùng cần để ý: Dùng đường uống, người dùng có thể thấy lợm giọng, buồn nôn, nôn, táo bón, ỉa chảy, kích ứng đường tiêu hóa. ngoại giả, đối với chế phẩm dạng nước, nếu uống trực tiếp có thể thấy đen răng (răng bị nhuộm màu), có thể uống qua ống hút để khắc phục tình trạng này. Khi uống sắt, một số người còn thấy có hiện tượng phân đen. Đây là tình trạng không hiểm nên người bệnh không cần phải lo âu nếu gặp phải. Khi dùng đường tiêm có thể thấy đau tại chỗ tiêm.
Cần lưu ý, để sắt tiếp thu được tốt nhất, khi uống viên sắt hoặc ăn các thực phẩm giàu sắt thì nên ăn các thực phẩm giàu vitamin C để giúp tăng cường tiếp nhận sắt như: bưởi, cam, quýt, chuối, xoài...; không dùng cùng các chế phẩm chứa canxi hoặc thức ăn giàu canxi (việc bổ sung song song cả canxi và sắt làm cản trở tiếp nhận của cả 2 và bị đào thải ra ngoài. cho nên, thời gian bổ sung sắt cần tránh thời gian bổ sung canxi chí ít 2 tiếng); nên uống sắt vào lúc bao tử rỗng (lúc đói), sắt sẽ hấp thụ tốt hơn.
Chế phẩm chứa vitamin B 12
Vitamin B 12 là loại thuốc tạo máu, được dùng trong các bệnh về máu như: Thiếu máu ác tính tự phát hoặc sau khi cắt bao tử, bệnh tiêu chảy mỡ và các bệnh khác do thiếu vitamin B 12 do tiếp thụ kém...
Khi thiếu vitamin B 12 gây nên thiếu máu ưu sắc hồng cầu to (thiếu máu ác tính Biermer), thương tổn neuron hệ thần kinh (phù nề, mất myelin), có thể gây chết neuron thần kinh ở tuỷ sống, vỏ não, gây rối loạn cảm giác, vận động ở chi, rối loạn trí nhớ, rối loạn thần kinh.
Khi dùng thuốc, cần chú ý đến phản ứng phản vệ (nhất là khi dùng đường tiêm), sốt; ngoài da có thể gặp phản ứng dạng trứng cá, mày đay, ngứa, đỏ da... Không dùng thuốc cho người dị ứng với thuốc và dịch thuật kontum midtrans người bị ung thư các thể khác nhau (do vitamin B 12 làm tăng trưởng các mô có tốc độ sinh trưởng cao nên có nguy cơ làm u tiến triển); người bệnh có cơ địa dị ứng như hen, eczema).
Vitamin B 12 có thể dùng dưới dạng đơn chất hoặc phối hợp với các vitamin và các muối kim loại để uống hoặc tiêm bắp hay tiêm dưới da. Dùng dạng thuốc nào, liều lượng ra sao do bác sĩ chỉ định tùy thuộc vào nguyên cớ và thương tổn do thiếu vitamin B 12 gây ra.
Thuốc chứa acid folic (vitamin B 9 )
Acid folic là yếu tố không thể thiếu được cho tổng hợp nucleoprotein và tạo hồng huyết cầu thường ngày; thiếu acid folic gây ra thiếu máu nguyên hồng huyết cầu khổng lồ. Thuốc được dùng trong các trường hợp thiếu máu hồng cầu to không có dấu hiệu tổn thương thần kinh do thiếu acid folic (do kém thu nạp, tiêu chảy kéo dài); thiếu máu tan máu, giảm bạch huyết cầu hạt, mất bạch cầu hạt và dự phòng thiếu hụt acid folic khi dùng một số thuốc; bổ sung acid folic cho đàn bà có thai, cho con bú (đặc biệt nếu đang được điều trị sốt rét hay lao)...
dù rằng thuốc được dung nạp tốt nhưng cần đề phòng với bất lợi (tuy hiếm gặp nhưng có thể xảy ra) như: ngứa, nổi ban, mày đay hoặc rối loạn tiêu hóa... khi dùng thuốc.
Về liều lượng và cách dùng, người bệnh cần tuân theo chỉ định của thầy thuốc bởi trong từng trường hợp cụ thể, bác sĩ sẽ chỉ định liều lượng và cách dùng hiệp để đạt hiệu quả tối ưu.
DS. Trần Thị An
Nhận xét
Đăng nhận xét