Trẻ hóa bệnh tim mạch và những hệ lụy...
Vậy điều này gây ảnh hưởng thế nào đến chất lượng cuộc sống của người bệnh cũng như với sức khỏe cộng đồng. Phóng viên Báo Sức khỏe & Đời sống đã có cuộc bàn bạc với PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng – Phó Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, Tổng thư ký Hội Tim mạch học Việt Nam về vấn đề này.
PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng
Phóng viên (PV): Xin PGS cho biết, bệnh lý tim mạch ở Việt Nam trong những năm gần đây có biến động gì đáng chú ý?
PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: Ở nước ta hiện chưa có thống kê đầy đủ về tỷ lệ mắc bệnh tim mạch trong cộng đồng, nhưng thực tiễn bệnh tim mạch gia tăng hàng năm rất nhanh chóng. Nếu năm 1980 thống kê cho thấy có khoảng 10% bệnh nhân mắc tăng huyết áp nhưng đến năm 2009 tăng lên 27% ở người lớn. Còn tại bệnh viện, theo thống kê bệnh lý tim mạch không lây nhiễm như bệnh động mạch vành tăng cao chóng vánh, ví dụ tại phòng Tim mạch can thiệp – Viện Tim Mạch Việt Nam, khoảng 10 năm trước đây, can thiệp khoảng 300 ca bệnh nhân bị bệnh động mạch vành/năm thì tới năm 2016 đơn vị can thiệp khoảng 3.500 ca/năm. Con số này cho thấy tốc độ gia tăng số người mắc bệnh gấp hơn 10 lần trong vòng 10 năm qua. Bên cạnh đó, bệnh tim mạch cũng chiếm con số tử vong không nhỏ trong các bệnh lý không truyền nhiễm ở nước ta, khoảng 33% với gần 200 nghìn người tử vong mỗi năm. Điều đáng báo động là tình trạng tử vong do các bệnh tim mạch đốn khởi hành từ người bệnh khi họ không được phát hiện và điều trị kịp thời.
ngoại giả, mô hình bệnh tật trong bệnh lý tim mạch cũng có sự đổi thay, chả hạn như cách đây 30 năm, nhồi máu cơ tim là bệnh lý khá hiếm gặp ở nước ta nhưng bây giờ căn bệnh này đã trở thành rất phổ thông, gặp hàng ngày tại mọi cơ sở y tế. Trước đây, tỷ lệ bệnh thấp tim hay còn gọi tê thấp cấp (ăn vào khớp đớp vào tim) ở nước ta rất cao nhưng hiện giờ bệnh xơ vữa có tỷ lệ cao hơn. Một thí dụ khác là tình trạng trẻ hóa bệnh tim mạch, cụ thể như bệnh lý tăng áp huyết, nếu như trước đây bệnh lý này thường gặp ở người cao tuổi thì giờ ngày càng có nhiều người trẻ mắc bệnh.
PV: PGS có thể nói rõ hơn về căn do gây trẻ hóa bệnh tim mạch ở nước ta?
PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: hiện thời, mô hình bệnh tim không lây truyền bị trẻ hóa bởi lối sống hiện đại hóa. Trước đây, các bệnh mạch vành, động mạch não, bệnh động mạch ngoại biên... thường chỉ gặp ở người cao tuổi nhưng giờ gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, có thể chưa đến 40 và gần đây nhất chúng tôi liên tiếp can thiệp những trường hợp bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim ở tuổi tầm 30 trong đó có ca mới 28 tuổi. Theo điều tra năm 2014 về tăng huyết áp, số người bị tăng áp huyết dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ 16,5%. nguyên cớ dẫn đến trẻ hóa các bệnh lý tim mạch không lây truyền là do lối sống đương đại theo thiên hướng có hại cho sức khỏe như ăn thực phẩm chế biến sẵn nhiều dầu, mỡ cộng với tình trạng lười vận động, uống rượu, hút thuốc lá... Đối tượng có nguy cơ thường gặp nhất là những người thừa cân, béo phì, vòng bụng lớn, có rối loạn mỡ máu, tăng áp huyết và đặc biệt là ở bệnh nhân hút thuốc lá.
Đối với bệnh tăng huyết áp cũng vậy, hiện rất nhiều bệnh nhân trẻ ở độ tuổi 30-35 mắc các bệnh lý về huyết áp, tim mạch và thậm chí là không ít trong số đó tử vong do nhồi máu cơ tim. nguyên cớ chính cũng phát xuất từ thói quen, lối sống, ăn uống không hợp lý: Ăn nhiều chất béo no, đồ ăn chế biến sẵn, dùng thuốc lá, bia rượu, nước uống có gas, stress... dẫn tới béo phì, tăng áp huyết, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường... và rốt cục là các biến cố tim mạch.
Khi một người mắc bất kỳ bệnh lý tim mạch nào khi còn trẻ tuổi như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch... thì đều ảnh hưởng đến sức khỏe nói chung cũng như chất lượng sống hay hoạt động hàng ngày. Những trường hợp này đều cần phải có chế độ tập tành, sinh hoạt, ăn uống, dùng thuốc đều đặn, hiệp để nâng cao chất lượng sống, tránh nguy cơ tàn tật và ảnh hưởng đến tuổi thọ.
PV: Vậy bệnh lý tim mạch nào hiểm nhất và có thể sàng lọc hay tầm soát được không?
PGS. TS.Phạm Mạnh Hùng: Tất cả các bệnh lý tim mạch đều nguy hiểm và có nguy cơ tử vong cao nhưng đều có thể gạn lọc và tầm soát được. Những bệnh lý tim mạch gây tử vong hoặc tàn phế chiếm tỷ lệ cao nhất là nhồi máu cơ tim, các bệnh động mạch vành và đột quỵ não. Bên cạnh đó, bệnh động mạch vành do nhồi máu cơ tim cấp, hội chứng vành cấp có thể gây tử vong ngay hoặc dẫn đến hậu quả suy tim và nguy cơ tử vong sau đó. ngoại giả, các bệnh lý tim mạch khác cũng nguy hiểm không kém. cho nên, vấn đề quan trọng nhất của chúng ta là biết cách sàng lọc và tầm soát nguy cơ của bệnh. Để thực hiện, mỗi người cần khám sức khỏe định kỳ, chắt lọc các nhân tố nguy cơ và bệnh tim mạch, nhất là những người lớn tuổi do các bệnh lý tim mạch phần đông không có biểu lộ và thường din biến lặng thầm. Các khuyến cáo cho thấy, mỗi người cần nhớ chỉ số huyết áp của mình cũng như số đo chiều cao cân nặng, tuổi... để xác định nguy cơ, sau đó mới có chỉ định khám sàng lọc kỹ, chuyên sâu hơn xem có bị các biến cố tim mạch nào chưa. Hoặc khi người bệnh có các miêu tả bất thường như khó thở, đau ngực, thay đổi huyết áp, đánh trống ngực... thì cần đến cơ sở y tế để được khám sớm, tránh tình trạng để bệnh trở nặng gây khó khăn trong điều trị hay đến viện muộn gây những hậu quả đáng tiếc.
Bệnh tăng áp huyết ngày một trẻ hoá.
PV: Vậy theo PGS, căn do đến bệnh viện muộn là gì, có phải do suy nghĩ phân vân của bản thân người bệnh hay vì những lý do khác?
PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: Bệnh nhân đến bệnh viện muộn có thể hiểu là họ đã bỏ qua “khung giờ vàng” để điều trị hay đã có những biến chứng nặng chẳng thể cứu vãn. Có rất nhiều nguyên tố chi phối điều này nên điều quan yếu trước nhất là phải truyền thông, nâng cao nhận thức của mỗi người dân để họ biết ở từng lứa tuổi có những nguyên tố nguy cơ nào, triệu chứng nào cảnh báo thế nào và cần phải làm gì, cần sự hỗ trợ thế nào. Thứ hai là trang bị cho tuyến cơ sở về chuyên môn và dụng cụ để chẩn đoán bệnh, thực hiện được những kỹ thuật cần thiết. Tiếp đến là vấn đề kinh phí, các kỹ thuật can Dịch tiếng Ý tại Long An thiệp tim mạch rất tốn kém nên để người bệnh tim mạch nào cũng có thể tiếp cận thì cần được thực hành bảo hiểm y tế, chí ít có thể thông được mạch vành kịp thời lúc đó. Ở Viện Tim mạch Việt Nam, nếu mọi điều kiện của bệnh nhân đầy đủ, chúng tôi có thể khai triển từ lúc người bệnh vào viện đến lúc được can thiệp trong vòng 60 phút. Nhưng từ lúc bệnh nhân có triệu chứng cho đến khi vào được bệnh viện thì lại quá lâu, đó là điều đáng tiếc.
PV: lợi. của “khung giờ vàng” đối với người bệnh tim mạch được biểu đạt như thế nào, thưa PGS?
PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: “Khung giờ vàng” là thời gian tốt nhất cho người bệnh phục hồi và tránh biến chứng do bệnh tim mạch. “Khung giờ vàng” thường được vận dụng cho những bệnh lý hiểm nguy, dễ để lại di chứng như nhồi máu cơ tim cấp, đột quỵ. Đối với bệnh nhồi máu cơ tim cấp, người bệnh được cấp cứu tái thông động mạch vành bị tắc càng sớm càng tốt, “khung giờ vàng” để cứu sống người bệnh và tránh những hậu quả về sau là 6 giờ đầu kể từ khi xuất hiện triệu chứng đau ngực. Tuy nhiên, thực tế lâm sàng cho thấy, chỉ có khoảng 40% bệnh nhân được đưa đến bệnh viện kịp thời, 60% còn lại là muộn nên nhiều trường hợp không cứu được hoặc có sống cũng dễ bị biến chứng suy tim, rối loạn nhịp và chất lượng cuộc sống giảm sút. Đối với bệnh đột quỵ nhồi máu não thì “khung giờ vàng” được xác định trong khoảng 4 - 5 giờ đầu sau khi người bệnh bị đột quỵ với phương pháp dùng thuốc tiêu sợi huyết qua tĩnh mạch. Thuốc càng dùng sớm, hiệu quả càng cao, có thể giúp người bệnh bị đột quỵ có dịp hồi phục hoàn toàn. Nếu bỏ qua “khung giờ vàng” này, người bệnh dù được cấp cứu bằng các biện pháp tốt nhất vẫn có thể để lại những di chứng như liệt nửa người, liệt tứ chi, không nói được...
Như vậy, bệnh tim mạch dù rằng rất hiểm lại diễn biến lặng thầm nhưng mỗi người hoàn toàn có thể phòng tránh được nếu có lối sống khoa học, chừng đỗi, không hút thuốc lá, uống rượu... và biết nhận diện dấu hiệu của các bệnh lý này để có biện pháp xử trí kịp thời, không bỏ lỡ “khung giờ vàng” của chính mình hay người thân trong gia đình.
PV: Xin trân trọng cảm ơn PGS về cuộc đàm đạo này!
Thu Lương (thực hiện)
Nhận xét
Đăng nhận xét